Đất chết

Tuần báo VietTide   Sept 29  2013

Bodie

Đất chết

Bodie Ghost Town  [ Mono County ]

 

   Cỏ gai khô cháy, cát bụi bay mịt mù theo các cơn gió lốc, bầu trời xanh biếc lơ thơ vài  gợn mây trắng bay, con đường dài bất tận không một tàng cây hay bóng người. Từ lúc rời xa lộ CA 395 rẻ vào con đường nhỏ CA 270 đi về phía đông, giống như anh chàng cao bồi trong các bộ phim viễn tây một mình một ngựa, niềm tịch  mịch như khối đá nặng đè lên buồng ngực hơi thở mỏi mòn  khô rát.

   Bodie, con số mười ngàn cư dân của thời hưng thịnh đã biến mất dạng. Lố nhố những cột xiêu bên bức tường gỗ thủng, tìm đâu màn buị cát mỏng cuốn theo sau dấu giày chàng cao bồi cuả ngày tháng cũ. Dừng lại ở cổng vào, đóng góp lệ phí, nhận tập sách mỏng in bản đồ Bodie, bạn tự do đi tìm bóng ma của thời hoàng kim cũ.

   Cơn sốt vàng của miền viễn tây đưa hàng ngàn người “ Thanh niên Tây Tiến” [ Young Men go West ]. Năm 1859 Waterman S Body [ hay William Bodey ] là người đầu tiên tìm thấy vàng trong vùng sa mạc phía Tây rặng nuí Sierra, Bodie ban đầu do một người thợ sơn viết sai chính tả trên biển chỉ dẫn [Điều nầy không biết đã kiểm chứng chính xác chưa ]  Bodie do cách phát âm thành tên gọi của thành phố nằm giữa sa mạc hoang dã nầy. Sau khi vàng khám phá từ Virginia City Nevada [ Comstock Loge ], từng đoàn người tiến vào các vùng sa mạc cao nguyên phía tây Sierra, người ta tìm đến Bodie với giấc mơ đào được từ lòng đất chất kim loại lấp lánh nầy,  chỉ trong một thời gian ngắn con số dân cư tăng lên bất thường, chứa đủ thành phần phiêu lưu lẫn đầu trộm đuôi cướp, cộng thêm khách bán phấn buôn hương,  bất kể khí hậu  sa mạc khắc nghiệt ngày nóng đêm lạnh  bất thường.

  1879 chuyện giết người sảy ra gần như hàng ngày, tháp chuông đổ báo tên tuổi đám tang của người chết không ngừng tiếng. Chặn xe, cướp của, trấn lột thường xuyên, với 65 quán rượu, chuyện đánh nhau gần như cơm bữa. Người nổi danh nhất “ Badman from Bodie” theo các sử gia thì tên thật của ông ta là Tom Adams [ có người bảo Wahshoe Peter ] Nhưng cho dù tên gì đi nữa thì thành tích bất hảo cùng với Whiskey cộng thời tiết khắc nghiệt đã  biến Bodie  thành danh trong lịch sử Tây tiến của thời mở mang bờ cõi  Hoa Kỳ.

    Bên dưới đám bụi thời gian, cùng với Tom Adams nằm yên trong nghĩa trang là tên của những người  ở tận bờ đông hay xa tít bên kia lục địa đã từng một thời xây dựng trù phú cho Bodie . Phố chính tang thương, dấu xưa xe ngựa. bên cạnh những cơ xưởng  đứng chỏng chơ chiếc máy cưa thuở bắt đầu, vách gỗ loang lỗ mái trường còn sót lại tấm bảng đen trên vách, tìm nơi đâu tiếng cười vô tư của trẻ thơ,  chỉ còn lại những cơn gió cát khô mùa hè, khí lạnh cắt xương tủy của mùa đông bao phủ Bodie thách thức với tháng ngày.

  

   1962 Bodie “ Ghost Town “ được tiểu bang công nhận là di tích lịch sử, được gìn giữ bảo vệ cho khách thăm viếng hiện nay. Để vào thăm phố xá Bodie, phải dùng một con đường mới vòng quanh thay vì đi thẳng vào Main street. Con đường dẫn vào bãi đậu xe, trạm chỉ dẫn, nhà vệ sinh, từ điểm phát xuất nầy dùng bản đồ theo trình tự sẽ đưa bạn ngược thời gian về trăm năm trước.

1    Thánh Đường và Cư Dân

   Từ bãi đậu xe theo ngỏ Green street căn nhà gỗ  còn giữ lại được cuả Dolan [ Đã có hai người trong họ Dolan từng nắm quyền Cảnh sát trưởng của Mono County hồi đầu thế kỷ ]

    Kế bên Dolan House là  Thánh Đường Methodist, ngôi thánh đường Protestant duy nhất được dựng lên năm 1882 và tồn tại đến bây giờ.

  Sau đó là dãy nhà cuả các cư dân McDonald, Metzger, Miller và Jame Stuart Cain… là những thương gia, kỷ nghệ gia, những người đã đóng góp vào sự phát triển cuả Bodie đương thời.

2   Kỹ nghệ , Thương Mãi

  Hầm mỏ và cơ xưởng

   Từ Main Street dẫn qua thung lũng Bodie Creek đến biên giới Nevada chỉ có bảy dặm dài. Mười bốn dặm từ Bodie đến Emeralda county Nevada [ do J M Corey dùng từ Spanish “ Emerald” có nghĩa ngọc biếc xanh  đặt ra từ năm 1861, Emeralda còn là tên của cô vũ nữ xinh đẹp trong tác phẩm nổi tiếng “ Thằng gù trong nhà thờ Đức Bà” của danh hào Pháp Victor Hugo ] Emaralda từng là quận lỵ  chính của ba county : Aurora đến năm 1883 Hawthorn từ 1883 đến 1907 và cuối cùng là Goldfield. Thi sĩ Mark Twain đã sống một đoạn đời công nhân hầm mỏ ở vùng đất mang tên người con gái Du mục trong tác phẩm lừng danh đó.

   Vào tháng bảy năm 1861 vàng tìm được từ mỏ Bunker Hill  mở đầu cho thời kỳ Gold rust của Bodie. Trải qua nhiều chủ nhân,  cho đến tháng tư năm 1877 thì bán lại với giá 67,000 đồng cho một công ty gồm có bốn người hợp tác để chính thức thành lập nên Standard Consolidated Mining Company, gồm có  hầm mỏ và cơ xưởng  chính nằm  trên dốc Bodie Bluff về hướng tây . Trong suốt 25 năm, công ty đã sản xuất gần mười lăm triệu đồng. Sự thành công lúc ban đầu của công ty đã biến con số cư dân của Bodie từ 20 lên 10,000 người trong vòng một năm, con số nầy mang theo các   cơ cấu thương mãi và sinh hoạt giải trí cũng như các nhu cầu khác. Cơ xưởng cuả Standard Consolidated Mining  Co.  bị hỏa hoạn hủy hoại vào 1898, một năm sau mới hoàn tất lại, và cuối cùng đóng cửa vào năm 1938.

   Từ năm 1860 đến 1941 tồng số sản xuất  vàng và bạc của Bodie Mining District lên đến 100 triệu đồng. Giá vàng từ 20 đến 30 đồng một oz, giá bạc từ  70 xu đến 1 đồng một oz.  The Standard là công ty thành công nhất của hơn 30 công ty khai thác và sản xuất của Bodie Mining District.

  Xưởng gỗ  “ Sawmill “  của Bodie đương thời chỉ sản xuất củi đun dùng cho lò sưởi. Hầu hết các gỗ dùng để xây cất thì vận chuyển về từ Mono Mill . Thời tiết của Bodie rất khắc nghiệt, tuyết phủ vào mùa đông có thể lên đến 20 inches, sức gió 100 dặm một giờ, hàn độ xuống – 30F đến – 40F . Chỉ với những nhà gỗ đơn sơ thuở đầu, vào mùa đông năm 1878-1879 đã giết chết rất nhiều người của Bodie. Chuẩn bị than củi đun lò sưởi cùng với thức ăn, rất cần thiết cho sự sinh tổn vào mùa đông.

  Điện Lực hóa

   Từ những ngày đầu máy chạy hơi nước đun bằng than củi là nhiên liệu chính cuả các cơ xưởng sản xuất. Càng ngày nhiên liệu càng khan hiếm đắt đỏ, Thomas Leggett [ superintnetdent của the Standard company ] được sự đồng ý và ủng hộ của Jame Cain [ chủ nhân của Midnight Mine ] về giả thuyết có thể dùng thuỷ điện để cắt giảm chi phí, nhưng trở ngại chính là Bodie không có nguồn nước chảy để thành lập nhà máy cung cấp năng lượng.

 Thomas Leggett tìm được ngưồn nước Green Creek cách Bridgeport  bảy dặm, nằm trên Castle Peak [ Dunderberg ] cách Bodie 13 dặm. Green Creek có đủ sức mạnh liên tục do các thác nước từ rặng núi Sierra chảy xuống. Qua rất nhiều khó khăn  trở ngại từ thời tiết đến vật dụng, dự án đình trệ từ tháng mười hai 1892 cho đến tháng bảy 1993 thì mới hoàn tất với ước lượng 3,530 volt và 130 mã lực [ 97 Kilowatt ]. Dòng điện chạy qua đường dây cáp giăng thẳng hàng từ Green Creek về Bodie dài gần 13 dặm [ thời điểm nầy người ta tin là dòng diện phải chạy theo đường dây thẳng tuột !! ] Sau một tháng  chạy thí nghiệm, công trình được xem như hoàn tất, dân phu mỏ của Bodie sẽ không còn nghe tiếng còi báo hiệu của các lò chạy máy hơi nước từ công xưởng, trang sử cũ đã lật qua.

    Sự thành công của Công ty Standard ghi vào lịch sử tiên phong dùng thuỷ điện lực từ một nhà máy với khoảng cách xa hơn 12 dặm [ Điều nầy bị lu mờ sau công trình xây Thủy điện của Niagara rất lớn được hoàn thành vào năm 1896 với 11.000 volt  dẫn 26 dặm về Buffalo.]

  Vận tải

   Một trong những cơ cấu quan trọng cho sự sinh tồn cuả Bodie, đó là di chuyển gỗ từ rừng  đến xưởng cưa xẻ thành cây ván và phân phối đi các nơi. Jame Stuard Cain dùng  bè trên Mono lake để chở gỗ súc vể Bodie, Jame cũng mở thêm wagon vận tải bằng đường bộ, sau đó cộng tác với Thomas Holt để mướn  Bodie Railroad and Lumber Company trong công việc nầy.

  Bodie Railroad and Lumber company là hậu thân của Bodie & Benton Railroad . Đường sắt thành lập từ năm 1881 chở gỗ từ  xưởng cưa Bodie wood and Lumper company mới thành lập   [ Còn gọi là Mono Mill ] cách bodie 32 dặm về phía đông . Hầu hết gỗ thông Jeffrey để xây dựng Bodie phát xuất từ xưởng Mono Mill.

    Trước khi có đường sắt, không thể quên phương tiện vận tải ban đầu như xe lừa, xe ngựa… Con số mười ngàn dân nhảy vọt từ 1879 đến 1880 không nhỏ, nhu cầu vận chuyển thực phẩm, vật dụng, quần áo đòi hỏi nhiều  xe ngựa để cung ứng. Stuard Kirkwood đã  mở một hệ thống xưởng sửa chửa xe cộ, làm móng ngựa, chăm sóc cho chúng. Cơ sở “ Stuard Kirkwood lively stable “ nằm ở góc King và Main Street. Ngoài ra, còn có thêm Tom Miller Stable and ice house [Nước đá được cắt ra từ các ao hồ  dùng mạt cưa để ủ lại và phân phối trong suốt mùa hè ]

3  Thông tin Giải trí Sinh hoạt

    Thời kỳ hưng thịnh từ 1877  đến 1880  tờ tuần báo The Standard Pioneer Journal of Mono County phát hành số đầu tiên vào tháng 10 năm 1877 sau đó tăng lên hai lần một tuần, cùng lúc với đường giây thép nối Bodie với Bridgeport và Genoa Nevada.

   1912 đánh dấu cho sự suy sụp của Bodie, The Bodie Miner đình bản sau khi phát hành tờ báo cuối cùng, sức sống của thành phố cũng lịm dần. The Standard Consolidated mine đóng cửa vào năm 1913, Jame C Cain mở lại vào 1915  nhưng không đủ sức cứu thành phố dẫy chết, The Bodie railway bỏ phế 1917. Sau trận hỏa hoạn 1932 thiêu rụi phố chính, đến năm 1942 thì hầm mỏ  hoàn toàn đóng cửa.

   Miner Union Hall  xây năm 1878 là nơi tổ chức các  buổi lễ tưng bừng vào ngày Lễ Độc Lập,  dạ vũ hóa trang sang trọng vào ngày lễ sinh nhật Washington, tiệc Giánh Sinh hàng năm cho trẻ con lẫn người lớn. The Miner Union Local 61 Western Federation of Miner được thành lập vào ngày 22 tháng 12 năm 1877, là một trong những Union đầu tiên được thành lập ở California. Cơ sở nầy hiện nay được dùng làm Bảo tàng viện của Bodie

  Bonaza street [ Red light district ]  song song với Main street còn có tên Maiden Lane, Virgin Alley, nơi tấp nập khách bán phấn mua hương từng nồi tiếng với “ Lady of the night” The Beautiful Doll, Elenor Dumond [ Madame Mustache ], Rosa Mary, Emma Goldsmith, Nellie Monroe, French Joe…Họ sống  và làm việc trong những dãy phòng dọc theo hành lang với biệt danh “ cribs “  .

4  China Town: Thành phố trong thành phố

  Đặc điểm của người Trung Hoa, họ luôn sống chung với nhau, điều nầy không ngoại lệ, cho dù ở tận một nơi hẻo lánh như Bodie. Con số dân Trung Hoa vào khoảng vài trăm người, họ chung sống trong một  góc biệt lập cuả Bodie, bên cạnh Red Light District, trong đó có cửa hàng thực phẩm, quán trọ, sòng bạc, tiệm giặt, họ  giữ phong tục tập quán riêng. Có cả Taoist Temple lẫn tiệm hút Á Phiện giành cho cả hai người Tây Phương và Á Đông.

   Phần lớn những người Trung Hoa nầy sống bằng nghề bán hàng rong, giặt mướn, dựa và chẻ củi đốt cung cấp cho mọi người.

5 Di tích, nghĩa trang

  Pearson Spring nằm về hướng tây, đây có thể là nơi W.S. Bodey sinh sống tạm khi ông và ba người đồng hành tìm thấy vàng vào năm 1859.Tuy nhiên căn lều gỗ chính nơi ông sinh sống nằm hướng đông của Bodie Bluff, nơi vàng tìm được ở Taylor Gulch thuộc hướng đông cuả Silver Hill. Cuối tháng mười một năm 1859 Bodey và Black Taylor  trên đường mang vật dụng về từ Monoville thì Bodey  gặp bão tuyết mất tích. Cho đến sang Xuân thì Taylor mới tìm thấy  xác của Bodey để chôn cất. Sau nầy thì  W Bodey được cải táng lại trong Masonic Cemetery.

  Bodie có bốn nghĩa trang : Ward’s cemetery, Masonic Cemetery, Miner Union Cemetery, Chinese Cemetery. Hầu hết dành riêng cho những người danh phận có mộ bia ghi tên họ, thường dân thì chôn bên ngoài hàng rào trong “ Boot Hill “ và hầu hết không có bia mộ.

  Waterman S. Bodey là người lập ra thành phố lại không có mộ bia, mãi cho đến ngày 5 tháng 10 năm 1957 thì  mới có mộ bia đá cẩm thạch do E.Clampus Vitus tưởng niệm và dựng lên .

 

    Vật đổi sao vời, lang thang qua các căn nhà gỗ xiêu vẹo, nhìn những vật dụng nằm dưới lớp bụi cát, trong ngăn tủ, góc bếp còn thấy lại dấu vết của  sự sống, của mái ấm gia đình. Nhưng vật dụng còn đây người đã khuất tự bao giờ …

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

Tóc Ngắn

 

 

Tóc Ngắn

**  Chuyện kể cuả bạn tôi, chị làm cho một thẩm mỹ viện trong thương xá.

 

   Người phụ nữ trung niên, khuôn mặt hiền hoà, dễ mến. Bà xin hẹn rất nhiều lần, tôi đã từ chối. nhưng bà vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Có những khi đi mua sắm trong thương xá, bà cũng ghé vào thăm. Tôi giải thích rất nhiều lần, bây giờ thời gian  làm việc cuả tôi không còn như ngày xưa, vì sức khỏe kém, nên tôi thu ngắn và không nhận thêm khách hàng mới. nhưng bà vẫn kiên nhẫn chờ đợi.

          Tôi thường quan sát cách làm việc cuả bà. Tôi biết bà làm ở đây từ lâu. Lần đầu tôi đến đây, tôi xin hẹn với bà, nhưng không có giờ nên tôi phải lấy hẹn với Dana Thật là phiền toái đó, bà ấy không chịu nghe tôi nói, mà chỉ muốn làm theo ý cuả mình.

          Khổ thật, bà chọn đúng vào con  người nầy thì khó mà lay chuyển, bà ta rất độc đoán, chỉ có ý cuả bà là đúng, còn ý muốn người khác thì mặc kệ

          Nhưng tôi là người trả tiền, tôi phải có ý kiến chứ

          Đúng vậy, vấn đề rất đơn giản , bà là khách hang,cứ chọn lựa kiểu tóc, chọn màu sắc mình yêu thích, và Dana cứ thế mà làm theo thôi, có gì khó khăn đâu?

          Nhưng bà ấy không làm như vậy, cho nên tôi mới phiền lòng,thú thật là tôi đã không muốn trở lại đây nữa đó, nhưng vì tôi cố ý muốn chờ  bà nên mới đến xin hẹn, Không ngờ tôi gặp Dana đang ngồi ngoài bàn tiếp khách, thế nên tôi không muốn sinh ra chuyện lôi hôi, tôi huỷ giờ hẹn và không trở lại đây thêm lần nào nữa.

          Tôi không ngờ có chuyện như vậy, phải chi bà nói cho tôi biết sớm để tôi giàn xếp ổn thoả hơn .

          Tôi không muốn làm phiền mọi người, bây giờ tóc tôi mọc thêm dài rồi nên mới quyết định trở lại tìm bà đó chứ.

          Tôi thật cảm ơn sự kiên nhẫn và lòng trung thành cuả bà. Bây giờ tôi có thể làm gì giúp thì bà cứ thẳng thắng nói ra nhé.

          Vâng, tôi hòi thăm thì biết là Dana đã không còn làm việc ở đây, nên tôi cảm thấy tự nhiên hơn.

          Vâng , tóc của Susan bây giờ dài và đẹp quá,  thoạt nhìn, thú thật là tôi không nhận ra bà .

          Tôi mới nuôi tóc lại mấy năm nay đó. Tôi luôn ao ước là sẽ có mái tóc uốn từng lọn dài, trong các chị em gái, tôi là người có sợi tóc thẳng như que, tóc của bà chị tôi,  từng lọn cong dầy và đẹp cô cùng.

          Tôi hiểu, chúng ta thường ao ước ngược lại những gì mình có. Tôi uốn cong tóc cuả người tóc thẳng và kéo thẳng tóc quăn. Nhưng không như vậy thì chúng tôi thất nghiệp mất.

Câu chuyện xoay chunh quanh  mái tóc, Susan hẹn sẽ đến khi bà sẵn sàng. Tôi cũng không nghĩ đến chuyện nầy nữa, những người khách hàng thường xuyên đã khiến cho tôi bận rộn suốt tuần rồi cho nên tôi rất ngạc nhiên khi nhìn thấy Susan bước vào. Lần nầy thì với lý do chính đáng. Bà ngồi xuống ghế,

          Tôi muốn uốn tóc quăn, bà nghĩ tóc nầy đã đủ dài chưa?

          Susan, chiều dài cuả tóc không phải là trở ngại chính, mà điều kiện cuả tóc mới là nan giải đó.

          Sao vậy?

          Tôi rất muốn uốc tóc cho bà, nhưng bà hãy nhìn đây, sợi tóc bà rất mỏng, hiện đang nhuộm màu, nếu tôi dùng hoá chất để uốn thì sẽ làm hư tóc .Tôi thậtkhông muốn làm, tôi biết bà trả tiền, và không ngại tốn kém, nhưng lương tâm tôi không cho phép tôi làm việc cẩu thả. Xin bà hiểu cho.

          Tôi luôn quí sự chân thật cuả bà. Nhưng tôi đã không còn nhuộm màu từ lâu rồi, và luôn dùng thuốc nuôi dưỡng tóc, nên tôi  nghĩ là có thể uốn được rồi đó.

          Không Susan, thuốc nhuộm vẫn còn trong sợi tóc, trừ khi cắt bỏ hẳn đi.

          Thế thì tôi không còn hy vọng sao?

          Vâng, trừ khi bà cắt ngắn và nuôi cho  tóc dài trở lại .

          Tôi đã cắt một lần rồi đó, lần nầy là “ Lễ Vàng “ kỷ niệm năm mươi năm ngày cưới cuả Ba mẹ, có rất nhiều thân nhân vè tham dự. tôi định giành sự ngạc nhiên cho mọi người nên mới làm phiền bà.

          Tiếc quá, ước gì tôi có thể làm khác hơn. Bà cắt tóc ngắn thời gian nào vậy?

          Hơn ba năm rồi bà. Lúc đó tóc tôi chỉ hơn hai lóng tay thôi.

          Nguyên nhân nào Susan lại cắt ngắn như vậy ?

          Kể ra thì dài dòng, Mẹ chồng tôi bị bệnh bứu trong óc, phải vào bệnh viện giải phẫu. Lúc xuất viện thì tóc cuả bà đã phải cắt ngắn đi, dĩ nhiên là bác sĩ không cắt như viện thẩm mỹ, dù sau đó tôi đã đưa mẹ đi thẩm mỹ viện để cắt sửa lại, nhưng mẹ cứ nhìn mái tóc dài cuả tôi mà buồn hiu hắt. Không muốn làm cho mẹ buồn thêm, nên tôi đã lấy kéo tự cắt tóc cuả mình, cứ đo chiều dài chừng hai lóng tay, tôi cắt hết mái tóc dài mượt mà không hối tiếc.

          Susan, bà thật là can đảm và hiếu hạnh, tôi khâm phục vô cùng.

          Mẹ sống hơn sáu tháng, sau khi mục bứu dữ tái phát lại, lúc bấy giờ thì không còn cứu chữa được nữa. Tôi không hề tiếc nuối mái tóc cuả mình, vì cho dù chì sống được có sáu tháng phù du, ít nhất thì mẹ cũng an vui hạnh phúc hơn.

          Susan, người đông phương chúng tôi ca tụng hiếu hạnh, có những người đã lão thành nhưng vẫn đóng trò hề cho cha mẹ vui tươi, tấm gương hy sinh cuả bà thật là đáng cho chúng tôi khâm phục.

          Tóc có thể mọc dài ra, nhưng mẹ thì chỉ có một, nếu có thể  giữ được mẹ với chúng tôi thì mái tóc không cần thiết nữa.

          Susan, bà đã chờ bấy lâu, phải chi tôi biết trước, thì đã khuyên bà không nên nhuộn màu. Lần nầy bà có tiệc mừng, tôi thật đắn đo.

          Ba mẹ tôi tuổi đã cao, không biết còn lại bao nhiêu ngày, lần nầy chúng tôi mời tất cả họ hàng về chúc mừng, muốn làm bất ngờ, cho nên tôi cũng muốn sửa soạn cẩn thận. Gần một năm, tôi chưa về thăm, chỉ chuyện trò thường xuyên thôi.

          Susan, tôi hiểu tấm lòng của bà, tôi chia niềm vui, cầu chúc bà có một ngày thật vui mừng, hạnh phúc .

Vũ Thị Thiên Thư.

 

 

Vùng đất cô đơn

Tuần báo VietTide  Aug 30 2013

 

 

Vùng đất cô đơn

Mono County, California

 

  Ngày thứ nhì của chúng tôi đi thăm  mạn đông của dãy Sierra . Sau khi vượt qua Tioga Pass, ngắm MonoLake và nghỉ đêm ở cửa Tây của Yosemite thành phố Lee Vining. Mono County còn có tên  trong  bảng danh sách mười vùng đất cô đơn của Hoa Kỳ.

1        Miệng núi lửa Panum

   Những tia nắng rạng ngày chiếu qua khung cửa sổ, như thói quen, chúng tôi đã thức dậy sửa soạn cho các sinh hoạt đầu ngày. Điểm tâm qua loa, thu dọn hành trang, từ giã quán trọ qua đêm, thành phố Lee Vining với 398 cư dân vẫn chưa tỉnh giấc. Trở lại Hightway 395 south, con đường chính của Mono County, từ đó rẽ vào East 120, buổi sáng sương chưa tan, không một gợn mây xám đe dọa như chiều hôm qua, thảo nguyên khô cằn với những bụi cỏ gai, thật ra không biết nên gọi chúng là cây hay cỏ, khi nghĩ đến sa mạc, trong trí tưởng tượng của tôi là những đồi cát chập chùng, nhìn đồng cỏ khô trước mắt, cây chưa hơn thước, lá gai nhọn, nếu cánh đồng nầy nằm trong lòng đại dương thì các bụi gai nầy cũng giống như các hải thảo nằm trong vùng biển san hô, thiên nhiên thật là kỳ diệu, tuy khác nhưng lại có những tương đồng, những bí mật mà có khi suốt cả cuộc đời chúng tôi vẫn chưa tìm thấy .

   Tám bảng chỉ đường rất nhỏ, không để ý tìm sẽ dễ dàng bỏ qua. Chiều hôm qua, nếu không vì cơn mưa và trời tối đe dọa thì chúng tôi đã phiêu lưu vào con đường đất cát ngoằn nghèo trước mặt. Vào chưa đến một dặm thì đã có bảng khuyến cáo cho xe  hơi thường không nên mạo hiểm, các loại xe dùng cho sa mạc hay ít nhất cũng là xe chạy cả bốn bánh mới nên vào. Càng về sâu thì con đường càng nhỏ lại gồ ghề hơn, và hố cát sâu liên tục, không thấy một chiếc xe nào ngoài chúng tôi, không gian thật là tĩnh mịch. Bãi đậu xe vắng ngắt, hai bên con đường mòn dẫn lên miệng núi lửa lác đác những tấm thảm màu hồng thắm trong nắng sáng, khi dến gần tôi nhận thấy  một loại xương rồng mọc tràn lan trên mặt đất và những đóa hoa nhò nầy đang nở rực rỡ dưới ánh nắng mai.

   Dù đã chuẩn bị giày để đi bộ, nhưng không thể đoán trước sự thay đổi của không khí trên độ cao, vừa qua khỏi triền dốc đầu tiên, tôi cảm thấy không khí loãng rất khó thở, tim đập nhanh, nên dừng lại để điều hòa hơi thở. Nhìn lên con đường mòn quanh co theo triền đồi, một bên là vách đá, nhìn xuống triền dốc đầy cỏ gai, chúng tôi cẩn thận bước theo đường mòn có dấu chân cuả người đi trước.

    Khiđến chân cuã miệng núi lữa, đã thấy xếp một hàng dài các loại Phún xuất thạch từ trong lòng đất theo miệng nuí lửa trào ra. Lần cuối Panum hoạt động được ghi lại khoảng 650 năm trước. Phún xuất thạch từ Panum chứa phần lớn là  silica [ quart -độ chừng 76% ] sản xuất từ lò thiên nhiên nầy khi ngưôi lại biến thành đá bọt [ Pumice ] và đá miểng chai [ obsidian ] màu đen cạnh rất sắc bén. Hai loại đá nầy trọng lượng rất nhẹ và mềm so với đá hoa cương [ Granite ] hay đá huyền vũ [ Basalt ] .

  Có hai con đường mòn, một dẫn ra ngoài vành đai, một dẫn lên thẳng miện nuí lửa,chúng tôi chọn con đường nầy để đi, tuy con đường ngoằn ngoèo dốc cheo leo, nhưng khi đến đỉnh rồi thì đúng là không thể diễn tả được khung cảnh trước mắt, trong hố đầy đá đen nhọn như những mảnh chai, từng mảng to nhỏ chồng chất lên nhau lạ lung không thể hình dung được. Thiên nhiên có quá nhiều những điều kỳ diệu đôi khi chúng tôi không có đủ ngôn tử giải thích được , cũng như không thể diễn tả được cái cảm xúc khi đứng nhìn khung cảnh đang bày ra, trong ánh sáng của đầu ngày lại chứa đựng sự yên lặng tịch mịch, nhưng trong cái hố nằm an lành đó sáu trăm năm trước đây là một cái nồi sùng sục kim loại cùng hóa chất đang tranh giành ảnh hưởng với nhau, chưa kể đến những đám mây xám chì u ám trên bầu trời.

  Theo đường mòn trở xuống bãi đậu xe, không quên dừng lại dưới chân núi và nhấc thử các mảnh đá đã được  ghi chú, giải thích về trọng lượng cuả từng loại đá phun ra từ Panum.

 Hình đính kèm

Đá Silica

 

 

2        Benton : Suối nước nóng

   Trở lại Hightway E 120, điểm kế tiếp chúng tôi sẽ đến là suối nước nóng Benton. Bản đồ chỉ dẫn không miêu tả hết cảnh vật, qua Mono Mill, rừng cây Red wood bạt ngàn bỏ lại sau lưng, trước mặt là đỉnh cao tám ngàn bộ với sa mạc nắng cháy cỏ gai. Nhà tôi lại chép miệng “ Only in California “. Thật vậy, không thể giải tích được , chỉ có nơi đây, rừng và sa mạc nối tiếp nhau, hồ nước mặn nằm chênh vênh  trên đỉnh nuí. Con đường cong lên xuống vắng ngắt đến rợn người, xe nhấp nhô như con tàu đang nhồi sóng. Qua khe núi đá đỏ chồng chất lên nhau hai bên đường, trong trí tưởng tượng khủng long từ truyện thiếu nhi hay phim hoạt hoạ.

  Khi vừa qua một khúc quanh cuả Hightway E 120, tấm biển ghi Benton dân số 164, độ cao 5.377, đường phố  tiêu điều  gió cát, chúng tôi nhìn nhau, không biết mình có đến đúng nơi không. Chợt nhớ bài hát ngày thanh niên cũ “Phố núi cao…đi năm phút lại về chốn cũ..” Năm phút thật là phóng đại, vì trước mắt chúng tôi chỉ thấy sơ xác mấy căn nhà đứng buồn thiu. Con phố chính còn vỏn vẹn một căn nhà rông, trước đây là cửa hàng tạp hóa, trên vách còn hình quảng cáo cuả Coca cola màu sơn đã bạc,  trên mặt tiền tấm bảng hiệu “ Benton Hot Springs EST 1852 “ . Cuối phố là một ngã ba, Hightway 9 cắt ngang  và cũng là điểm chấm dứt cuả Hightway 120

   Trở lại phố chính, hai bên đường nằm rải rác mấy Wagon của thời Viễn tây cùng với các nông cụ cày bừa , xe ngựa…Hình ảnh của thời di dân và cơn sốt vàng được giữ lại như chứng tích thi gan cùng gió cát. Benton giống như một thành phố trong quá khứ của một thời dập dìu khách du nay đã vùi dập lãng quên. Chúng tôi dừng lại một nhà trọ duy nhất còn lại của Benton,  trong khu vườn hoa lá tươm tất, mấy chiếc ghế xưa cũ kỹ như đang chờ đợi khách vãng lai. Chủ nhân là một người trung niên, anh chào hỏi niềm nở, chúng tôi hỏi anh có biết suối nước nóng không ? Anh xác nhận cho chúng tôi biết đây chính là nơi chúng tôi đi tìm và anh cũng là chủ nhân hiện tại cuả cuộc đất nầy.

   Lần viếng Hot Spring cuả Arkansas chúng tôi đã thất vọng vì không như chúng tôi hình dung trong trí tưởng tượng. Nguồn nước nóng thiên nhiên đã bị ngăn lại thành những cơ sở kinh doanh, cả một thành phố với khách sạn, bồn tắm , xoa bóp… Còn lại một phòng tắm công cộng cũng do thành phố quản lý, trong đó có nhân viên phục vụ cho từng cá nhân  trong các bồn tắm riêng biệt.

   Chủ nhân cuả nhà trọ ở Benton giải thích với chúng tôi là nơi nầy do anh thừa hưởng, và anh muốn gìn giữ lại cơ sở nầy giống như lúc bắt đầu. Nước nóng trong các bồn tắm từ con suối thiên nhiên,  khách có thể pha them nước để điều hoà nhiệt độ. Có tất cả chin bồn tắm dành riêng cho mỗi phòng trọ qua đêm. Còn lại thì khách có thể trả tiền theo giờ dùng.

   Sân sau cuả nhà trọ với mái hiên rộng,  võng mắc trên nhánh cây, bàn ghế nhỏ rải rác dưới tàng cây chờ đợi khách, mỗi bồn tắm xây gạch men, có  rào cây làm vách che, hai vòi nước đang chảy liên tục vì là giờ làm vệ sinh hàng ngày. Cả khu vườn vắng ngắt yên tĩnh, khách trọ qua đêm đã khởi hành từ rạng sáng, mấy đoá hoa súng màu trắng tinh khiết trong hồ nước nhỏ soi bóng nắng lung linh, tiếng bước chân trên sỏi làm kinh động không gian tĩnh mịch

  Từ giã Benton, chúng tôi đã tìm được suối nước nóng

 

Hình đính kèm;

 

 

Vũ Thị Thiên Thư

Mono Lake

 

South Tufa

 

 

Mono Lake

1 Tioga pass

   Sau giấc ngủ cuả mùa đông dài, những dòng thác tận mây xanh cuả Yosemite đang trở giấc thả từng đợt cuồng lưu xuống trần. Tháng năm, khi tin tức thông báo Tioga pass vừa mở cửa, chúng tôi đã sẵn sàng. Năm nay, thật ra thì đã sớm hơn mọi năm, vì thường thì độc đạo vượt qua đỉnh Sierra chỉ mở cưả vào cuối tháng năm sau ngày Chiến sĩ Trận Vong [ Memorial Day ]

   Từ vùng vịnh hay từ thung lũng Tam biên, để đến Mono county qua ngỏ San Joanquin county thì con đường CA 120 băng ngang qua thung lũng Yosemity và Tioga pass là con đường ngắn và đẹp nhất, nhưng cũng là con đường trắc trở với độ cao tới 9,945 bộ .Tuyết trắng vẫn còn bám dọc theo hai bên đường quanh co, càng lên cao, không khí càng nhẹ, hơi lạnh tiết ra từ đá núi cộng với sức gió biến thành con số của hàn độ đối nghịch lại với chiều cao, dù đã cẩn thận đọc các chi tiết trong bảng chỉ dẫn và đã chuẩn bị áo len dầy, nhưng tốt nhất vẫn mang thêm cả áo chắn gió, vì chỉ cần một cơn gió xoay chiều là nhiệt độ có thể hạ xuống một cách bất thường

   Sự kỳ diệu cuả thiên nhiên vẫn có một sức hấp dẫn vô cùng, dù mới đến thăm Yosemite hôm cuối tháng tư, chúng tôi vẫn bàng hoàng dừng lại dọc theo các tảng đá, con suối trong quanh co uốn khúc, hay dòng nước đổ xuống từ đỉnh cao hùng vĩ. Những tưởng chỉ có chúng tôi là những người náo nức chờ Tioga pass thông qua, không ngờ sau lưng chúng tôi còn có một đoàn xe liên tục. Vừa qua khỏi một khúc quanh hiểm trở, nối với đường hầm xuyên qua núi, mắt chưa kịp nhìn quen bóng tối thì trước mặt hiện ra một cánh rừng bát ngát nằm trong thung lũng sâu tít mù, trái tim dường như loạn nhịp, hơi thở nhẹ nhàng buông, khung cảnh trước mặt làm chúng tôi choáng ngộp, không thể diễn tả được cái cảm giác bang hoàng khi đứng trước bức tranh tuyệt mỹ, đúng là tuyệt tác của Thượng Đế.

   Tioga Road đoạn đường từ Crane Flat cho đến cửa ngỏ cuả Yosemite bên mạn đông là thành phố Lee Vening dài 59 dặm còn gọi là Scenic Road, ngang qua thung lũng Toulumne với vách núi đá hoa cương sừng sững, rừng thông xanh bát ngát, gương hồ trong như bích ngọc. Từ Olmsted Point nhìn về hướng tây nam là Tenaya canyon , mạn đông là Haft Dome và Hồ Tenaya

   Hồ Tenaya ở độ cao hơn tám ngàn bộ, rộng lớn nhất cuả Yosemite, màu nước trong xanh in bóng mây trời cũng là một trong các điềm thu hút khách du, lác đác đó đây những bàn Picnic nằm dưới bóng cây, bên bờ nước, nơi chúng tôi dừng lại ăn trưa và ngắm gường hồ lấp lánh ánh dương.

   Tiếp tục Hightway 120 về hướng đông, dọc theo các đường cong diụ dàng chập chùng thông xanh, đến các đỉnh hoa cương cao nhọn như ngọn bút lông cắm thẳng lên bầu trời, ngọn Cathedral Peak cao 10,940 bộ nằm bên cánh phải khi con đường dẫn vào Tuolumne Meadow , chúng tôi chưa kịp hoàn hồn truớc khung cảnh bát ngát cuả nuí tiếp nuí, đồi tiếp đồi, đến khi vừa qua khỏi cổng Tioga thì thêm một lần nữa nhìn lên đỉnh Tioga Peak với 11,526 bộ hùng vĩ hiện ra. Con số không thể hình dung được chiều cao, nhà tôi mang bài học còn thuở phi hành nhắc lại, ngay cả những ngày còn bay ngang qua ruộng đồng bát ngát thì độ cao cũng chưa qua khỏi mười ngàn bộ huống gì mười một ngàn bây giờ. Thật ra thì xe đang lăn bánh liên tục cho nên tôi không có cái cảm giác trồng rỗng dưới chân như khi theo nhà tôi leo lên chiếc trực thăng ngắm cánh đồng mùa thu cuả Brown County Indiana mấy năm trước.

   Bỏ lại phía sau ngọn nuí đá hoa cương cao ngất, quanh co qua them mấy ngọn đèo, từ con dốc cao nhìn xuống khung cảnh trước mắt làm tôi từ ngôn biến mất : Mono Lake.

2 Mono Lake

   Đây là điểm đến mà chúng tôi chờ đợi từ đầu mùa xuân. Vừa qua khỏi khúc quanh cuối cùng, trước mắt chúng tôi là gương hồ soi bóng trời xanh bát ngát. Điều không thể hình dung được, trên đỉnh cao hơn sáu ngàn bộ, Mono Lake là hồ nước mặn tồn tại bấy lâu nay. Năm trước đây khi ngang qua Great Salt Lake của Utah, [ Cả hai giống như hai chị em, không có lối thoát ra biển, cùng nước mặn, cùng thể chất.] trông thấy màu muối trắng lấp lánh tận chân trời, tôi đã không thể hình dung được sự diệu kỳ của tạo hóa. Giữa cánh đồng bát ngát nước mặn từ đâu đến ? Cũng như tự bao giờ “ Thương hải biến vi tang điền “ [ Biển xanh biền thành ruộng dâu] bây giờ trái lại, đồng cỏ biến thành biển khơi như người xưa đã nói.

   Muà tiếp mùa, những phân tử nước trong Mono Lake theo vòng luân hồi bốc hơi tha phương lưu lạc trong không gian, niú kéo nhau thàng những áng mây thiên hình vạn trạng. lang thang trên đỉnh Seirra, qua Tiaga Pass thay chiếc áo tuyết trắng tinh tạm trú chờ khách du chiêm ngường, sang mùa xuân theo hơi ấm cuả tiết trời, một lần nữa biến dạng thành những dòng thác từ tận đỉnh trở xuống các dòng sông khe suối tìm đường trở lại hồ khai nguyên.

   Khi chúng tôi theo hướng nam Hightway 395 đi về Mono lake, những đám mây xám đen từ chân trời đang kéo về. Thời tiết cuả vùng hồ nầy thay đổi bất thường, có khi đang nắng hơi nước trong hồ bốc lên gặp không khí lạnh trên cao biến thành những cơn mưa phùn li ti vội vã. Từ trong xe bước ra, nhiệt độ thay đổi có thể cách nhau từ mười đến hai mươi độ Fahrenhait.

   Dừng lại ở South Tufa , khu vực đá ong kết tụ do phản ứng hoá học trong tiên nhiên, trông từ xa xa như những thành quách điêu tàn đang thi gan cùng tuế nguyệt. Cổng vào không có nhân viên kiếm soát, nhưng nhìn dòng người xếp hàng ghi phiếu tự trả tiền lệ phí nhà tôi chép miệng “ only in America “ hành động tự giác thật cao. Sau khi trả tiền, chúng tôi theo con đường mòn nhỏ đi về phía các bãi san hô trên cạn, không khí nồng nặc mùi diêm sinh, nước hồ mặn hơn nước biển do muối tích lủy sau khi hơi nước bốc hơi tồn tại. Độ mặn nầy gấp 2.5 lần và độ Alkaline gấp 100 lần so với nước biển, chấm ngón tay vào nước có cảm giác nhờn nhờn, nếm mặn đắng do Sodium Cloride [ muối ] và Sodium bicarbonate [ Baking soda ]

   Mực nước trong hồ Mono hạ thấp xuống 1.3 feet do hạn hán mấy năm nay. Năm trước, mực nước ghi lại chỉ còn ở 6382.4 trên mặt nước biển , so với năm 1989 mực nước hồ thấp nhất được ghi lại dưới 9377 feet. Sự thay đổi của mực nước hồ cùng sức gió mùa thu và đông ảnh hưởng rất lớn đến sự sống trong lòng hồ. Tuy không có cá, nhưng có một giống tép Brine sống nhờ vào dinh dưỡng của nước hồ. Ngoài ra còn có các giống chim chóc về đây sinh sản vào mùa xuân [ Sage Thrasher, Sage, Savannah, Brewer’s Sparrow].

   South Tufa là khu vực đặc biệt không thể bỏ qua khi viếng Mono Lake. Khoáng chất kết hợp với nước, đặc biệt là nước mặn, làm thành một loại đá vôi hình thể rất lạ lùng, Tuy không cao lớn như các tảng đá ong nằm trong vùng Vịnh Hà Tiên hay xa hơn nữa trong Kỳ quan Vịnh Hạ Long, nhưng những tuyệt phẩm nầy không kém phần tráng lệ. Cũng không giống như các loại đá vôi kết hợp trong vùng suối nước nóng. Nằm dọc theo bờ hồ Mono, những tinh thể chồng chất lên nhau, theo các lượn sóng kết hợp với sức gió xây thành từng lâu đài nối tiếp với tháp canh cao vút , bên cạnh đó là những thành phố nổi san sát nhà cửa , Càng nhìn càng thấy sự kỳ diệu cuả thiên nhiên.

Chiều xuống , chỉ tiếc những đám mây xám kia đã lấy mất ánh hoàng hôn rực rỡ trong óc tưởng tượng của tôi. Những đợt sóng lớn xô vào khu vực South Beach trăm ngàn bọt sóng bay như hoa gòn trong gió lộng.

   Ngày mai, chúng tôi sẽ đến thăm miệng núi lữa Panum , suối nước nóng Benton và thánh phố chết Bodie.

   Cảm ơn Thân sinh, người đã truyền lại cho tôi lòng yêu mến thiên nhiên, cũng như người bạn đường đã đưa tôi đi khắp nơi .

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

 

Ngọn hải đăng trong sương mù

 

 

Ngọn hải đăng trong sương mù

 

Point Reyes Light House

 

Từ những ngày bập bềnh trôi trên dòng biển đông dậy sóng, hình ảnh ngọn hải đăng là ánh sáng đưa đường luôn gây một niềm xúc động trong tôi. Mỗi lần đến thăm một địa phương hay thành phố biển nào đó, đọc trên bản đồ thấy có dấu hiệu hải đăng là tôi luôn tìm đến để thăm viếng. Lần nầy đi thăm Marin County nằm phía bắc cuả thành phố San Francisco cách Golden Gate một giờ lái xe cũng không nằm ngoại lệ.

Để đến Point Reyes National Seashore có thể theo hướng bắc Hightway 1, con đường ngoằn ngoèo qua nhiều đèo dốc có đoạn chạy sát gành đá cheo leo, có đoạn băng qua vùng thảo nguyên bát ngát, nơi từng bầy bò sữa đứng nhai cỏ an lành . Dấu hiệu cuả sự sống đã có từ ngàn năm trước , người thổ dân cuả bộ lạc Miwok đã sống trong vùng bán đảo nầy, họ sống nhờ vào săn bắn, ngoài muông thú còn có hào và cá hồi của vùng vịnh Tamales .

Năm 1579 Sir Francis Drake là người Âu Châu đầu tiên đã đặt chân lên vùng đất nầy, người Milwok và người Âu châu chung sống với nhau trong hoà bình, giống như người Aztec và Cortes. Dân số ban đầu tương tự như con số cuả cư dân hiện nay, họ có hơn một trăm làng mạc trải dài theo bờ biển cuả Point Reyes. Mãi đến đầu thế kỷ 19, người Mễ Tây Cơ đến đây lập nông trại canh tác và chăn nuôi, tiếp theo đó là người nông dân Hoa Kỳ đã kỹ nghệ hoá chăn nuôi  và nông nghiệp khai thác vùng đất màu mỡ nầy cho đến bây giờ.

Vì địa thế đặc biệt cuả Point Reyes cộng với thời tiết , sương mù quanh năm bao phủ, tàu bè sảy ra tai nạn thường xuyên, đến 1870 thì Chính phủ Hoa Kỳ cho xây đài kiểm báo, ngọn hải đăng cho vùng biến trắc trở nầy. Đài kiểm báo phát ra tín hiệu đặc biệt để cảnh giác và báo động khi sương mù bao phủ, tàu bè không trông thấy ánh sáng cuả ngọn hải đăng. Point Reyes còn là vùng gió nhiều nhất bên bờ Thái Bình Dương và đứng hàng thứ nhì về sương mù quanh năm cuả lục địa Bắc Mỹ. Muà hè sương mù bao phủ liên tục có khi chỉ trông thấy được trong vòng một trăm bộ [ 100 feet ] , Point Reyes giống như một bán đảo nhỏ chạy dài hơn mượi dặm ra biển, rất nguy hiểm cho tàu bè ra vào vịnh San Francisco, do đó đã sảy ra nhiều tai nạn chết người. Cho dù ngọn hải đăng kết hợp với đài kiểm báo làm việc liên tục nhưng vẫn không thể ngăn chặn được tai nạn cho tàu bè, trạm cấp cứu ở North Beach được xây thêm vào năm 1890, nhân viên kiểm báo làm việc từ bốn đến sáu giờ liên tục hàng ngày quan sát các dấu hiệu cấp cứu cuả tàu bè lâm nạn và cứu các nạn nhân bị cuốn đi theo dòng cuồng lưu lạnh buốt. Đến 1927 thì trạm cấp cứu mới được xây trên vịnh Drakes , gần Chimey Rock và hoạt động cho đến 1968. Hiện nay thì toàn thể vùng đất nầy đã được bảo vệ thành di tích lịch sử cuả quốc gia.

Ngọn hải đăng ở Point Reyes nầy làm việc cho đến 1975 thì được US Coast Guard thay thế bằng hệ thống đèn tự động, giống như hầu hết các ngọn hải đăng trên lảnh thổ Hoa kỳ. Nguyên nhân chính là do tiết kiệm nhân lực và dùng đèn điện ít tốn kém hơn. mặc dù ngọn đèn chỉ thắp vào lúc mặt trời lặn cho đến rạng ngày, nhưng đó là công việc cuả hai mươi bốn giờ liên tục, người gác đèn và ba nhân viên chia nhau mỗi phiên sáu tiếng đồng hồ. Mỗi ngày, nửa tiếng trước khi mặt trời lặn, người gác đến thắp sáng ngọn đèn, sau đó kéo dây đồng hồ quả lắc nặng 170 cân Anh, mất hai giờ hai mươi phút thì quả lắc sẽ chạm đáy sâu 17 feet, hệ thống nầy sẽ làm cho ống kính che ngọn hải đăng xoay quanh mỗi năm giây. Ánh sáng chớp loé nầy tạo thành đặc điểm cuả ngọn hải đăng để giúp cho tàu bè dễ nhận ra . Công việc thầm lặng nầy cứ mỗi hai giờ hai mươi phút liên tục suốt đêm, chưa kể tim đèn phải luôn luôn giữ một mức độ cố định để ánh sáng của ngọn đèn luôn luôn cháy đều.

Mặt kính che ngọn hải đăng Point Reyes nầy được chế tạo rất đăc biệt, và là phát minh cuả khoa học gia Augustin Jean Fresnel [ Pháp Quốc ]. Ông đã áp dụng lý thuyết Quang học để chế tạo ra khung kính nầy. Trước đây ánh sáng xuyên qua khung kính thuỷ tinh chỉ có thế trông thấy được trong vòng mười hai dặm, kính Fresnel bằng lưu ly có thể thấy được tận chân trời [ hai mươi bốn dặm ]. Ánh sáng cuả khung kính Fresnel chiếu ra hai mươi bốn mặt in xuống mặt biển như vòng bánh xe, toàn khối kính nặng 6000 cân, xoay theo một chu kỷ chớp loé mỗi năm giây đồng hồ, tạo thành dấu hiệu đặc biệt rất dễ nhận ra cho tàu bè qua lại.

Người gác hải đăng hàng ngày còn phải lau chùi mặt kính che ngọn đèn, đánh bóng các đường viền bằng đồng, chưa kể sau mỗi phiên gác phải leo lên 300 feet dưới sức gió thường xuyên từ 60 đến 133 dặm một giờ . Vì vị trí đăc biệt cuả gành đá trên chóp đỉnh Point Reyes cao hơn sáu trăm feet sương mù thường xuyên, ngọn hải đăng phải nằm dưới màn sương do đó phải đặt trên mõm đá cao cách mặt biển chỉ có một nửa cuả Point Reyes . Công việc nầy đòi hỏi một sức kiên nhẫn chiụ đựng sự tĩnh mịch, chưa kể thường xuyên lên xuống các bậc thang gỗ tương đương với 30 tầng lầu trong sức gió mảnh liệt quả là điều không dễ dàng.

Tuy vậy vẫn có người âm thầm làm việc , giữ gìn ánh sáng cho ngọn hải đăng bất chấp thời tiết bất thường, cuổng phong thịnh nộ, giúp cho tàu bè ra vào trong vịnh San Francisco sẽ tránh được sự nguy hiểm cuả vùng ghềnh đá trắc trở cũng như vòng sương mù ma quái cuả Point Reyes.

Theo con đường Sir Francis Drakes hai mươi dặm về hướng nam và phải vượt qua con dốc cao quanh năm gió lộng pha sương mù lạnh buốt , sau đó trèo 300 bậc thang để xuống tận ngọn hải đăng. Đứng trên đài quan sát, chỉ có thể trông thấy ngọn hải đăng thấp thoáng sau màn sương. Che chở dưới mõm đá, là nơi trú ngụ cuả từng bầy hải âu và hải cẩu. Trở ra biển khơi, là con đường thiên di cuả từng đoàn cá voi theo dòng nước xuôi ngược bắc nam cuả Thái bình dương mỗi tháng giêng đến tháng tư.

Dọc theo con đường dốc dẫn lên đỉnh quan sát, chui qua hàng cây cổ thụ đang nghiêng mình theo chiều gió, nhìn thấy màu đỏ rực trên các tảng đá gợi sự tò mò trong tôi, khi đến gần nhìn kỷ, tôi mới thấy đó là một giống rêu bám vào thân đá, hiên ngang chống chọi với sức gió và sương ẩm quanh năm. Tôi đã nhìn thấy bao nhiêu là hoa dại mọc rải rác theo đường đi, mỗi nơi mỗi sắc, nhưng thiên nhiên vẫn là niềm bí hiểm vô cùng, có đi đến mỏi gối mòn chân, cũng không dám nghĩ là mình đã khám phá tất cả sự kỳ diệu nầy.

Trở xuống con dốc dài, một lần nữa băng qua sương mù và gió lộng, con đường đã có bao nhiêu người qua đi, sẽ có bao nhiêu người sẽ đến, ngọn hải đăng vẫn hàng ngày kiên trì chống chọi,

Tạm biệt .

 

Vũ Thị Thiên Thư

 

 

 

 

 

 

 

Livermore

 

 

 

Livermore

– Mình ơi!Lại muốn đi đâu ? Nghe cái giọng ngọt như mía lùi là biết muốn nhờ cậy chuyện gì đây.

Đúng là chưa kịp nói nhà tôi đã hiểu ý, mùa đông vùng Central Valley thời tiết rất dễ chịu so với Ngũ Đại hồ. Cuối tháng hai mà đã ấm áp, ban ngày có khi hơn sáu mươi độ Fahrenheit . Tuần trước mang hai chiếc xe đạp ra Vịnh Bán Nguyệt theo dọc bờ biển , ngày nắng ấm nhưng gió lớn nên chỉ đi được có hơn mười dặm phải cất xe đạp lên rồi vào thăm thành phố nhỏ ven biển. Theo dự đoán thời tiết thì tuần nầy sẽ mưa, như vậy không nên đi xa, Livermore bike trail xem ra hợp lý nhất.

Nhà tôi lại ngồi vào bàn viết, thói quen hơn ba mươi năm làm việc không thể bỏ đi một sớm một chiều, mỗi lần sắp đi chơi. Cho dù chỉ hơn nữa giờ lái xe, anh cũng cẩn thận nhìn bản đồ, xem các chi tiết và chấm tọa độ, định vị trí…Trong khi đó tôi chỉ cần mang máy hình, một ít thức ăn nhẹ trong xách tay là có thể lang thang cả ngày.

Livermore cách San Francisco gần năm mươi dặm về hướng đông, theo đường I-580, thành lập bời Wiliam Mendenhal, năm 1869. Trước đó do bộ lạc Costonoan Indians khi còn nằm chung trong khu vực San Jose Mission. Robert Livermore là tên cuả một người thủy thủ từ anh Quốc đến thám hiểm vùng Monteray, ông yêu thích vùng thung lũng nầy nên gọi đó là nhà của mình, sau khi được cấp quyền sở hữu chủ, ông lập ra Rancho la Positas là khu vực bao trùm cả thành phố Livermore hiện nay.

Livermore là một trong vùng ba thung lũng [ Tri Valley : Livermore, Dublin, Pleasanton ] và cửa ngỏ của Central Valley. Khí hậu tương đối ôn là thích hợp cho trồng trọt chăn nuôi, là vùng nổi tiếng lâu đời nhất của tiểu bang California về trồng nho làm rượu Wine. Kỷ nghệ làm wine bắt đầu từ năm 1840. Các nhà nổi tiếng như :CH Wente, James Cocannon, Charles Wetmore đã thành lập winery từ 1880, đến 1889 thì Livermore Valley giành được Huy chương vàng đầu tiên cho Hoa Kỳ ở Paris, từ đó Hoa Kỳ có tên trên bản đồ sản xuất Wine của thế giới.

– Bây giờ em muốn đi dường dài hay ngắn đây?

– Có đường nào cảnh đẹp không?

– Không biết rõ, nhưng muốn vậy thì theo đường mòn chứ không ngang qua phố thị được

– Em chưa cần vào phố đâu,

– Vậy thì đi Arroyo Mocho trail , nếu còn sức thì sẽ đi tiếp Isabel.

Sau khi ăn sáng và chờ cho sương tan, chúng tôi lại mang hai chàng ngựa sắt lên chiếc xe vận tải nhỏ, đã sau giờ đi làm nên xe cộ thưa thớt hơn. Qua ngọn khỏi ngọn đồi Altamon, chợt nhớ bà bạn mới ví von đó là ngọn đồi trị giá trăm ngàn, thoạt nghe tôi không hiểu tại sao, bà cười giải thích

– Qua khỏi ngọn đồi đó vào Livermore thì mỗi căn nhà tương đương với Tracy hay Mountain House bà sẽ phải trả thêm cả trăn ngàn nữa để mua.!! Bởi vậy mới gọi là ngọn đổi trăm ngàn.

Trước khi rời xa lộ vào phố thị, chúng tôi đi ngang qua một vùng mới phát triển nằm bên cạnh khu Paragon Premium outlet mới khai trương hồi mùa Lễ Tạ Ơn năm 2012. Cơn sốt mua sắm của giới tiêu thụ đã hạ dần, khu đất trống trải trước đây làm bãi đậu xe tạm không còn thấy chiếc nào. Con phố mới khang trang đẹp đẽ dẫn vào phố chính của Livermore, tôi nhắc lại lời hứa của anh khi chúng tôi còn đang lang thang đi tìm cành xây tổ “ kỳ sau mình ghé lại đây lang thang một chuyến hén !” cái hẹn chưa thực hiện, tất bật với cuộc thiên di trước mùa đông , tạm an nên tôi muốn tận dụng sở trường của chàng ngựa sắt là quà tặng của con gái út. Con bé không dấu được ngạc nhiên khi thấy mẹ lẻo đẻo theo hai Bố con đi dọc theo Lake Shore Drive thành phố Chicago trên chiếc xe đạp cà tàng. Chiếc xe đạp mới nầy rất nhẹ, có thể vượt đường trường, leo dốc, tôi đã đi đoạn đường mười hai dặm trong Vịnh Bán Nguyệt tuần trước đó mà chưa hề thấm mệt.

Phố chính của Livermore rất khang trang, dọc theo hai bên đường là những giàn hoa, xe cộ nối đuôi nhau chầm chậm, qua các cửa hàng bán đồ cổ nho nhỏ, quán cà phê với bàn ghế dưới tàng dù bên hàng hiên. quay ngược về bên trái nhìn thấy nóc chuông nhà thờ màu trắng bên kia, tôi nghị bụng khi trở về sẽ ghé qua để ghi lại.

Arroyo Mocho trail dài khoảng mười dặm, bắt đầu gần Shadow Cliffs Regional Recreation Area cuả Pleasanton theo dòng Arroyo Mocho quanh co uốn khúc vào Livermore, xuyên qua các công viên Robertson, Sunken garden, Robert Livermore. Tuy không phải là con đường chính nhưng rất tiện lợi để tránh nạn kẹt xe băng qua thành phố. Từ phía Tây, con đường mòn ngoằn ngoèo chạy phía sau cuả khu nhà cửa mới xây, vòng xuống con đường sắt và chiếc cầu SP đã từ lâu không còn sử dụng. Sau đó tiếp tục phía sau trường Trung Học Granada, công viên Mocho, Ferrario winery building còn gọi là Mayflower, Retzlaff Winwery… Tuy băng qua nhiều con đường rộn rịp, nhưng hầu hết có thể đi dưới gầm cầu cạn, trừ những lúc mưa lũ làm mực nước cuà Arroyo Mocho dâng cao hơn thì không thể dùng, phải vượt qua đường phố chính. Khoảng đường nằm trong Livermore từ Almond Ave school dài chừng năm dặm, có nhiều bãi cát đá dọc theo dòng nước chảy, muông thú tự do lang thang, ngoài các chú sóc con, còn có cả các chàng gà tây thư thả dạo chơi, con đường nầy rất thích hợp cho trẻ em . Hầu hết đều được trải đá và đắp nhựa đường , ngoài xe đạp còn có người đi bộ, chạy thể dục . Chỉ tiếc là đoạn đường nối vào Isabel đang đóng cửa cho các toán điện lực sửa chữa nên chúng tôi quay trở lại ,

– Alden Lane Garden show trước mặt đó. Có muốn ghé qua xem không?

– Dĩ nhiên là ghé rồi.

Anh biết là tôi không thể bỏ qua khi thấy tấm biển quảng cáo ,bước qua cổng, trước mắt tôi là gốc cây sồi số tuổi có thể hơn cả trăm, hàng hàng lớp lớp cây đang chuẩn bị bán ra ngoài, chưa kể từng giàn hoa đủ màu đủ sắc xếp theo từng khu vực, mỗi khu có dấu mũi tên hướng dẫn. Khu vườn cây ăn trái, cây cảnh, khu chưng bày các hồ nước với vòi phun, khu vườn mẫu và các chậu sành đủ màu sắc kích cỡ…Đây đúng là phần thưởng sau hơn mười dặm trên lưng con ngựa sắt.

Tạm biệt Livermore.