Đất chết

Tuần báo VietTide   Sept 29  2013

Bodie

Đất chết

Bodie Ghost Town  [ Mono County ]

 

   Cỏ gai khô cháy, cát bụi bay mịt mù theo các cơn gió lốc, bầu trời xanh biếc lơ thơ vài  gợn mây trắng bay, con đường dài bất tận không một tàng cây hay bóng người. Từ lúc rời xa lộ CA 395 rẻ vào con đường nhỏ CA 270 đi về phía đông, giống như anh chàng cao bồi trong các bộ phim viễn tây một mình một ngựa, niềm tịch  mịch như khối đá nặng đè lên buồng ngực hơi thở mỏi mòn  khô rát.

   Bodie, con số mười ngàn cư dân của thời hưng thịnh đã biến mất dạng. Lố nhố những cột xiêu bên bức tường gỗ thủng, tìm đâu màn buị cát mỏng cuốn theo sau dấu giày chàng cao bồi cuả ngày tháng cũ. Dừng lại ở cổng vào, đóng góp lệ phí, nhận tập sách mỏng in bản đồ Bodie, bạn tự do đi tìm bóng ma của thời hoàng kim cũ.

   Cơn sốt vàng của miền viễn tây đưa hàng ngàn người “ Thanh niên Tây Tiến” [ Young Men go West ]. Năm 1859 Waterman S Body [ hay William Bodey ] là người đầu tiên tìm thấy vàng trong vùng sa mạc phía Tây rặng nuí Sierra, Bodie ban đầu do một người thợ sơn viết sai chính tả trên biển chỉ dẫn [Điều nầy không biết đã kiểm chứng chính xác chưa ]  Bodie do cách phát âm thành tên gọi của thành phố nằm giữa sa mạc hoang dã nầy. Sau khi vàng khám phá từ Virginia City Nevada [ Comstock Loge ], từng đoàn người tiến vào các vùng sa mạc cao nguyên phía tây Sierra, người ta tìm đến Bodie với giấc mơ đào được từ lòng đất chất kim loại lấp lánh nầy,  chỉ trong một thời gian ngắn con số dân cư tăng lên bất thường, chứa đủ thành phần phiêu lưu lẫn đầu trộm đuôi cướp, cộng thêm khách bán phấn buôn hương,  bất kể khí hậu  sa mạc khắc nghiệt ngày nóng đêm lạnh  bất thường.

  1879 chuyện giết người sảy ra gần như hàng ngày, tháp chuông đổ báo tên tuổi đám tang của người chết không ngừng tiếng. Chặn xe, cướp của, trấn lột thường xuyên, với 65 quán rượu, chuyện đánh nhau gần như cơm bữa. Người nổi danh nhất “ Badman from Bodie” theo các sử gia thì tên thật của ông ta là Tom Adams [ có người bảo Wahshoe Peter ] Nhưng cho dù tên gì đi nữa thì thành tích bất hảo cùng với Whiskey cộng thời tiết khắc nghiệt đã  biến Bodie  thành danh trong lịch sử Tây tiến của thời mở mang bờ cõi  Hoa Kỳ.

    Bên dưới đám bụi thời gian, cùng với Tom Adams nằm yên trong nghĩa trang là tên của những người  ở tận bờ đông hay xa tít bên kia lục địa đã từng một thời xây dựng trù phú cho Bodie . Phố chính tang thương, dấu xưa xe ngựa. bên cạnh những cơ xưởng  đứng chỏng chơ chiếc máy cưa thuở bắt đầu, vách gỗ loang lỗ mái trường còn sót lại tấm bảng đen trên vách, tìm nơi đâu tiếng cười vô tư của trẻ thơ,  chỉ còn lại những cơn gió cát khô mùa hè, khí lạnh cắt xương tủy của mùa đông bao phủ Bodie thách thức với tháng ngày.

  

   1962 Bodie “ Ghost Town “ được tiểu bang công nhận là di tích lịch sử, được gìn giữ bảo vệ cho khách thăm viếng hiện nay. Để vào thăm phố xá Bodie, phải dùng một con đường mới vòng quanh thay vì đi thẳng vào Main street. Con đường dẫn vào bãi đậu xe, trạm chỉ dẫn, nhà vệ sinh, từ điểm phát xuất nầy dùng bản đồ theo trình tự sẽ đưa bạn ngược thời gian về trăm năm trước.

1    Thánh Đường và Cư Dân

   Từ bãi đậu xe theo ngỏ Green street căn nhà gỗ  còn giữ lại được cuả Dolan [ Đã có hai người trong họ Dolan từng nắm quyền Cảnh sát trưởng của Mono County hồi đầu thế kỷ ]

    Kế bên Dolan House là  Thánh Đường Methodist, ngôi thánh đường Protestant duy nhất được dựng lên năm 1882 và tồn tại đến bây giờ.

  Sau đó là dãy nhà cuả các cư dân McDonald, Metzger, Miller và Jame Stuart Cain… là những thương gia, kỷ nghệ gia, những người đã đóng góp vào sự phát triển cuả Bodie đương thời.

2   Kỹ nghệ , Thương Mãi

  Hầm mỏ và cơ xưởng

   Từ Main Street dẫn qua thung lũng Bodie Creek đến biên giới Nevada chỉ có bảy dặm dài. Mười bốn dặm từ Bodie đến Emeralda county Nevada [ do J M Corey dùng từ Spanish “ Emerald” có nghĩa ngọc biếc xanh  đặt ra từ năm 1861, Emeralda còn là tên của cô vũ nữ xinh đẹp trong tác phẩm nổi tiếng “ Thằng gù trong nhà thờ Đức Bà” của danh hào Pháp Victor Hugo ] Emaralda từng là quận lỵ  chính của ba county : Aurora đến năm 1883 Hawthorn từ 1883 đến 1907 và cuối cùng là Goldfield. Thi sĩ Mark Twain đã sống một đoạn đời công nhân hầm mỏ ở vùng đất mang tên người con gái Du mục trong tác phẩm lừng danh đó.

   Vào tháng bảy năm 1861 vàng tìm được từ mỏ Bunker Hill  mở đầu cho thời kỳ Gold rust của Bodie. Trải qua nhiều chủ nhân,  cho đến tháng tư năm 1877 thì bán lại với giá 67,000 đồng cho một công ty gồm có bốn người hợp tác để chính thức thành lập nên Standard Consolidated Mining Company, gồm có  hầm mỏ và cơ xưởng  chính nằm  trên dốc Bodie Bluff về hướng tây . Trong suốt 25 năm, công ty đã sản xuất gần mười lăm triệu đồng. Sự thành công lúc ban đầu của công ty đã biến con số cư dân của Bodie từ 20 lên 10,000 người trong vòng một năm, con số nầy mang theo các   cơ cấu thương mãi và sinh hoạt giải trí cũng như các nhu cầu khác. Cơ xưởng cuả Standard Consolidated Mining  Co.  bị hỏa hoạn hủy hoại vào 1898, một năm sau mới hoàn tất lại, và cuối cùng đóng cửa vào năm 1938.

   Từ năm 1860 đến 1941 tồng số sản xuất  vàng và bạc của Bodie Mining District lên đến 100 triệu đồng. Giá vàng từ 20 đến 30 đồng một oz, giá bạc từ  70 xu đến 1 đồng một oz.  The Standard là công ty thành công nhất của hơn 30 công ty khai thác và sản xuất của Bodie Mining District.

  Xưởng gỗ  “ Sawmill “  của Bodie đương thời chỉ sản xuất củi đun dùng cho lò sưởi. Hầu hết các gỗ dùng để xây cất thì vận chuyển về từ Mono Mill . Thời tiết của Bodie rất khắc nghiệt, tuyết phủ vào mùa đông có thể lên đến 20 inches, sức gió 100 dặm một giờ, hàn độ xuống – 30F đến – 40F . Chỉ với những nhà gỗ đơn sơ thuở đầu, vào mùa đông năm 1878-1879 đã giết chết rất nhiều người của Bodie. Chuẩn bị than củi đun lò sưởi cùng với thức ăn, rất cần thiết cho sự sinh tổn vào mùa đông.

  Điện Lực hóa

   Từ những ngày đầu máy chạy hơi nước đun bằng than củi là nhiên liệu chính cuả các cơ xưởng sản xuất. Càng ngày nhiên liệu càng khan hiếm đắt đỏ, Thomas Leggett [ superintnetdent của the Standard company ] được sự đồng ý và ủng hộ của Jame Cain [ chủ nhân của Midnight Mine ] về giả thuyết có thể dùng thuỷ điện để cắt giảm chi phí, nhưng trở ngại chính là Bodie không có nguồn nước chảy để thành lập nhà máy cung cấp năng lượng.

 Thomas Leggett tìm được ngưồn nước Green Creek cách Bridgeport  bảy dặm, nằm trên Castle Peak [ Dunderberg ] cách Bodie 13 dặm. Green Creek có đủ sức mạnh liên tục do các thác nước từ rặng núi Sierra chảy xuống. Qua rất nhiều khó khăn  trở ngại từ thời tiết đến vật dụng, dự án đình trệ từ tháng mười hai 1892 cho đến tháng bảy 1993 thì mới hoàn tất với ước lượng 3,530 volt và 130 mã lực [ 97 Kilowatt ]. Dòng điện chạy qua đường dây cáp giăng thẳng hàng từ Green Creek về Bodie dài gần 13 dặm [ thời điểm nầy người ta tin là dòng diện phải chạy theo đường dây thẳng tuột !! ] Sau một tháng  chạy thí nghiệm, công trình được xem như hoàn tất, dân phu mỏ của Bodie sẽ không còn nghe tiếng còi báo hiệu của các lò chạy máy hơi nước từ công xưởng, trang sử cũ đã lật qua.

    Sự thành công của Công ty Standard ghi vào lịch sử tiên phong dùng thuỷ điện lực từ một nhà máy với khoảng cách xa hơn 12 dặm [ Điều nầy bị lu mờ sau công trình xây Thủy điện của Niagara rất lớn được hoàn thành vào năm 1896 với 11.000 volt  dẫn 26 dặm về Buffalo.]

  Vận tải

   Một trong những cơ cấu quan trọng cho sự sinh tồn cuả Bodie, đó là di chuyển gỗ từ rừng  đến xưởng cưa xẻ thành cây ván và phân phối đi các nơi. Jame Stuard Cain dùng  bè trên Mono lake để chở gỗ súc vể Bodie, Jame cũng mở thêm wagon vận tải bằng đường bộ, sau đó cộng tác với Thomas Holt để mướn  Bodie Railroad and Lumber Company trong công việc nầy.

  Bodie Railroad and Lumber company là hậu thân của Bodie & Benton Railroad . Đường sắt thành lập từ năm 1881 chở gỗ từ  xưởng cưa Bodie wood and Lumper company mới thành lập   [ Còn gọi là Mono Mill ] cách bodie 32 dặm về phía đông . Hầu hết gỗ thông Jeffrey để xây dựng Bodie phát xuất từ xưởng Mono Mill.

    Trước khi có đường sắt, không thể quên phương tiện vận tải ban đầu như xe lừa, xe ngựa… Con số mười ngàn dân nhảy vọt từ 1879 đến 1880 không nhỏ, nhu cầu vận chuyển thực phẩm, vật dụng, quần áo đòi hỏi nhiều  xe ngựa để cung ứng. Stuard Kirkwood đã  mở một hệ thống xưởng sửa chửa xe cộ, làm móng ngựa, chăm sóc cho chúng. Cơ sở “ Stuard Kirkwood lively stable “ nằm ở góc King và Main Street. Ngoài ra, còn có thêm Tom Miller Stable and ice house [Nước đá được cắt ra từ các ao hồ  dùng mạt cưa để ủ lại và phân phối trong suốt mùa hè ]

3  Thông tin Giải trí Sinh hoạt

    Thời kỳ hưng thịnh từ 1877  đến 1880  tờ tuần báo The Standard Pioneer Journal of Mono County phát hành số đầu tiên vào tháng 10 năm 1877 sau đó tăng lên hai lần một tuần, cùng lúc với đường giây thép nối Bodie với Bridgeport và Genoa Nevada.

   1912 đánh dấu cho sự suy sụp của Bodie, The Bodie Miner đình bản sau khi phát hành tờ báo cuối cùng, sức sống của thành phố cũng lịm dần. The Standard Consolidated mine đóng cửa vào năm 1913, Jame C Cain mở lại vào 1915  nhưng không đủ sức cứu thành phố dẫy chết, The Bodie railway bỏ phế 1917. Sau trận hỏa hoạn 1932 thiêu rụi phố chính, đến năm 1942 thì hầm mỏ  hoàn toàn đóng cửa.

   Miner Union Hall  xây năm 1878 là nơi tổ chức các  buổi lễ tưng bừng vào ngày Lễ Độc Lập,  dạ vũ hóa trang sang trọng vào ngày lễ sinh nhật Washington, tiệc Giánh Sinh hàng năm cho trẻ con lẫn người lớn. The Miner Union Local 61 Western Federation of Miner được thành lập vào ngày 22 tháng 12 năm 1877, là một trong những Union đầu tiên được thành lập ở California. Cơ sở nầy hiện nay được dùng làm Bảo tàng viện của Bodie

  Bonaza street [ Red light district ]  song song với Main street còn có tên Maiden Lane, Virgin Alley, nơi tấp nập khách bán phấn mua hương từng nồi tiếng với “ Lady of the night” The Beautiful Doll, Elenor Dumond [ Madame Mustache ], Rosa Mary, Emma Goldsmith, Nellie Monroe, French Joe…Họ sống  và làm việc trong những dãy phòng dọc theo hành lang với biệt danh “ cribs “  .

4  China Town: Thành phố trong thành phố

  Đặc điểm của người Trung Hoa, họ luôn sống chung với nhau, điều nầy không ngoại lệ, cho dù ở tận một nơi hẻo lánh như Bodie. Con số dân Trung Hoa vào khoảng vài trăm người, họ chung sống trong một  góc biệt lập cuả Bodie, bên cạnh Red Light District, trong đó có cửa hàng thực phẩm, quán trọ, sòng bạc, tiệm giặt, họ  giữ phong tục tập quán riêng. Có cả Taoist Temple lẫn tiệm hút Á Phiện giành cho cả hai người Tây Phương và Á Đông.

   Phần lớn những người Trung Hoa nầy sống bằng nghề bán hàng rong, giặt mướn, dựa và chẻ củi đốt cung cấp cho mọi người.

5 Di tích, nghĩa trang

  Pearson Spring nằm về hướng tây, đây có thể là nơi W.S. Bodey sinh sống tạm khi ông và ba người đồng hành tìm thấy vàng vào năm 1859.Tuy nhiên căn lều gỗ chính nơi ông sinh sống nằm hướng đông của Bodie Bluff, nơi vàng tìm được ở Taylor Gulch thuộc hướng đông cuả Silver Hill. Cuối tháng mười một năm 1859 Bodey và Black Taylor  trên đường mang vật dụng về từ Monoville thì Bodey  gặp bão tuyết mất tích. Cho đến sang Xuân thì Taylor mới tìm thấy  xác của Bodey để chôn cất. Sau nầy thì  W Bodey được cải táng lại trong Masonic Cemetery.

  Bodie có bốn nghĩa trang : Ward’s cemetery, Masonic Cemetery, Miner Union Cemetery, Chinese Cemetery. Hầu hết dành riêng cho những người danh phận có mộ bia ghi tên họ, thường dân thì chôn bên ngoài hàng rào trong “ Boot Hill “ và hầu hết không có bia mộ.

  Waterman S. Bodey là người lập ra thành phố lại không có mộ bia, mãi cho đến ngày 5 tháng 10 năm 1957 thì  mới có mộ bia đá cẩm thạch do E.Clampus Vitus tưởng niệm và dựng lên .

 

    Vật đổi sao vời, lang thang qua các căn nhà gỗ xiêu vẹo, nhìn những vật dụng nằm dưới lớp bụi cát, trong ngăn tủ, góc bếp còn thấy lại dấu vết của  sự sống, của mái ấm gia đình. Nhưng vật dụng còn đây người đã khuất tự bao giờ …

 

Vũ Thị Thiên Thư